Pháp luật Việt nam đưa ra định nghĩa nhượng quyền thương mại trong Điều 284 Luật Thương mại như sau: “nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:
Điều kiện đặt ra với các chủ thể được xem xét trên cả hai bình diện:
Hoạt động nhượng quyền thương mại gồm rất nhiều loại, phân biệt với nhau dựa trên một số tiêu chí cụ thể sau:
Khi thực hiện hoạt động nhượng quyền, các thương nhân muốn tìm đến với một phương thức kinh doanh vừa đạt được mục địch mở rộng, phát triển hệ thống phân phối hàng hóa, dịch vụ đồng thời nhân rộng mô hình kinh doanh, phát triển thương hiệu. Để thực hiện điều này thương nhân nhượng quyền chấp nhận để các thương nhân khác sử dụng “quyền thương mại” của mình theo hướng chuyển giao toàn bộ, bao gồm các yếu tố liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, các bí quyết, phương thức kinh doanh, cung cách phục vụ của nhân viên, cách thức tổ chức hoạt động kinh doanh… trong một thể thống nhất không thể tách rời. Mọi sự sáng tạo, phát triển đối với phương thức kinh doanh mà bên nhận quyền thực hiện không xuất phát từ ý chí của bên nhượng quyền hoặc không được sự cho phép của bên nhượng quyền đều có thể dẫn đến việc phá vỡ tính đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống nhượng quyền. Từ đó, có thể thấy hệ quả và mục đích chính của hoạt động nhượng quyền là hướng tới sự đồng bộ và phát triển hệ thống nhượng quyền tới mức khách hàng không thể nhận ra các thương nhân trọng hệ thống nhượng quyền là các cơ sở kinh doanh độc lập mà chỉ nhận biết sự khác nhau của các hệ thống nhượng quyền thông qua sản phẩm mà họ cung ứng.
Đối tượng được các bên chuyển giao chính là “quyền thương mại”. Đó là một chỉnh thể thống nhất bao gồm nhiều yếu tố kết hợp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt với tên thương mại hoặc nhãn hiện hàng hóa, dịch vụ thuộc sở hữu của thương nhân nhượng quyền.